Giải trí

Nhận định, soi kèo Llaneros vs Junior, 08h30 ngày 17/3: Không dễ bắt nạt tân binh

字号+ 作者:NEWS 来源:Công nghệ 2025-03-21 16:08:19 我要评论(0)

Linh Lê - 16/03/2025 10:50 Nhận định bóng đá lịch thi đấu vô địch quốc gialịch thi đấu vô địch quốc gia、、

ậnđịnhsoikèoLlanerosvsJuniorhngàyKhôngdễbắtnạttâlịch thi đấu vô địch quốc gia   Linh Lê - 16/03/2025 10:50  Nhận định bóng đá giải khác

1.本站遵循行业规范,任何转载的稿件都会明确标注作者和来源;2.本站的原创文章,请转载时务必注明文章作者和来源,不尊重原创的行为我们将追究责任;3.作者投稿可能会经我们编辑修改或补充。

相关文章
网友点评
精彩导读
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc dự lễ trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KH&CN. Ảnh: Phạm Hải

Tại Lễ trao giải, có tổng cộng 29 công trình nghiên cứu được vinh danh. Trong đó bao gồm 12 công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và 17 công trình, cụm công trình được tặng Giải thưởng Nhà nước về KH&CN.

Các tác giả, đồng tác giả có công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về KH&CN được nhận Bằng chứng nhận Giải thưởng của Chủ tịch Nước cùng tiền thưởng theo quy định của Chính phủ.

Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ Huỳnh Thành Đạt, Giải thưởng Hồ Chí Minh được trao cho 130 tác giả, đồng tác giả của 12 công trình, cụm công trình đặc biệt xuất sắc. Với Giải thưởng Nhà nước về KHCN, giải thưởng này được trao cho 151 tác giả, đồng tác giả của 17 công trình, cụm công trình xuất sắc về KH&CN. 

Bộ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ Huỳnh Thành Đạt. Ảnh: Trọng Đạt

Các công trình, cụm công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đã làm rõ và đề xuất các nguyên tắc đổi mới ở Việt Nam trong thời điểm Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. 

Một số công trình nghiên cứu về ngôn ngữ được giới ngôn ngữ và văn tự học trong và ngoài nước đánh giá như một dấu mốc trong nghiên cứu ngôn ngữ, văn hoá Việt Nam. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về công nghệ, thiết kế, thi công, lắp đặt các công trình dầu khí biển siêu cường, siêu trọng cũng đã khẳng định chủ quyền và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh.

Các công trình được tặng Giải thưởng Nhà nước đã góp phần hình thành nên những kiến thức mới, đóng góp quan trọng về mặt tư liệu, được ứng dụng trong đào tạo, tăng hiệu suất, công suất, tiết giảm năng lượng, tiết kiệm nhiên liệu, thay thế hàng nhập khẩu, giảm giá thành đầu tư, giảm gánh nặng chi phí…, góp phần tạo sự đột phá về năng suất và hiệu quả kinh tế xã hội, tiết kiệm và đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội. 

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về KHCN. Ảnh: Phạm Hải

Chia sẻ tại lễ trao giải, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, Đảng và Nhà nước luôn xác định phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ tổ quốc. Đây là nội dung cần ưu tiên tập trung đầu tư cả về nguồn lực, cơ chế chính sách và con người trong hoạt động của các ngành các cấp. 

Theo Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, cần thẳng thắn rằng, năng lực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo của đất nước còn hạn chế, trong khi hành lang pháp lý, cơ chế chính sách còn thiếu đồng bộ, chưa tạo được động lực cho phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ. 

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc trao tặng Giải thưởng Nhà nước về KHCN. Ảnh: Phạm Hải

“Chúng ta chưa có chính sách tốt, cơ chế và chế độ đãi ngộ tốt, xứng tầm với tính chất sáng tạo và sự cống hiến của các nhà khoa học. Mức chi cho khoa học công nghệ còn thấp so với bình quân của thế giới. Nếu không đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, chúng ta sẽ bị mắc kẹt trong chính hố năng suất thấp, giá trị cạnh tranh thấp và bẫy thu nhập trung bình. Do vậy, nhà nước và khu vực tư nhân cần nhận thức đúng tầm quan trọng và đầu tư cho khoa học công nghệ một cách tương xứng”, Chủ tịch nước nói. 

Theo Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Việt Nam cần có một bước chuyển đổi chiến lược để thúc đẩy nghiên cứu khoa học, công nghệ trong một số ngành, lĩnh vực thế mạnh. Cần làm tốt hơn nữa việc phối hợp giữa Nhà nước và xã hội, giữa nội lực và ngoại lực trong phát triển khoa học, công nghệ.

12 công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh:

Công trình "Tự điển chữ Nôm dẫn giải", của GS. TSKH Nguyễn Quang Hồng.

Công trình "Về cách mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay", của cố GS Nguyễn Đức Bình.

Công trình "Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa thơm Sóc Trăng: ST24 và ST25 giai đoạn 2008-2016", của KS Hồ Quang Cua và 2 cộng sự.

Cụm công trình "Nghiên cứu đổi mới và phát triển công nghệ và thiết bị chế biến lương thực-thực phẩm và nông sản Việt Nam", PGS.TS Trần Doãn Sơn.

Công trình "3 tổ hợp lai các giống gà nội Minh Dư Bình Định (MD1.BĐ, MD2.BĐ, MD3.BĐ) giai đoạn 2000-2020", của tác giả Lê Văn Dư.

Cụm công trình "Phát triển chăn nuôi thủy cầm ở Việt Nam", TS Nguyễn Văn Trọng và 30 đồng tác giả.

Công trình "Nghiên cứu công nghệ nghiền khô siêu mịn, nâng cao mức độ tự động hóa và hiệu quả sử dụng nhiệt trong sản xuất ngói cao cấp", của tác giả Nguyễn Quang Mâu cùng 10 cộng sự.

Cụm công trình "Tối ưu hóa công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ ở vùng có nguồn lực hạn chế: từ nghiên cứu đến triển khai ứng dụng", của GS.TS Cao Ngọc Thành cùng 6 đồng tác giả.

Cụm công trình "Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán, điều trị bệnh đường hô hấp", của PGS.TS Nguyễn Viết Nhung cùng 22 đồng tác giả.

Cụm công trình "Nghiên cứu, phát triển công nghệ để khai thác các mỏ khí - condensate với điều kiện đặc biệt phức tạp thềm lục địa Việt Nam", của TS Ngô Hữu Hải và 27 đồng tác giả.

Cụm công trình "Nghiên cứu phát triển công nghệ thiết kế, thi công, lắp đặt các công trình dầu khí biển siêu trường, siêu trọng phù hợp với điều kiện Việt Nam, của ThS Bùi Hoàng Điệp và 11 đồng tác giả.

Cụm công trình "Hệ thống trạm đo carota tổng hợp xách tay TBM-02 và bộ quy trình minh giải tài liệu địa vật lý LOGINTER 2.0", KS Nguyễn Xuân Quang và 10 đồng tác giả.
17 công trình được tặng Giải thưởng Nhà nước về KH&CN:

Công trình "Phong trào chống chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam", của cố GS Đinh Xuân Lâm.

Cụm công trình "Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI-XVIII", Tập I: Thế kỷ XI-XV; Tập II: Thế kỷ XVI-XVIII, của cố GS.TS Trương Hữu Quýnh.

Cụm công trình "Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, lý luận bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng", của cố GS Trần Xuân Trường và 16 đồng tác giả.

Cụm công trình "Nghiên cứu chế tạo một số cảm biến khí có độ nhạy cao trên cơ sở vật liệu nano oxit kim loại bán dẫn và tổ hợp nano carbon bằng công nghệ vi điện tử", của GS.TS Nguyễn Đức Chiến và 10 đồng tác giả.

Cụm công trình "Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học Việt Nam hiện đại", của PGS.TS Phan Trọng Thưởng.

Cụm công trình "Thơ trữ tình và văn học Việt Nam hiện đại", của PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp.

Cụm công trình "Thơ Việt Nam hiện đại", của GS.TS. Lê Văn Lân.

Cụm công trình "Chủ nghĩa hiện thực và cá tính sáng tạo nhà văn", của GS.TS Trần Đăng Xuyền.

Cụm công trình "Nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sàng lọc, chẩn đoán và điều trị ung thư đại trực tràng", của PGS.TS Nguyễn Văn Hiếu cùng 6 đồng tác giả.

Cụm công trình "Nghiên cứu thiết kế cơ sở, chi tiết, công nghệ chế tạo, tích hợp giàn khoan tự nâng 400 ft phù hợp với điều kiện Việt Nam và nghiên cứu phát triển, hoán cải giàn khoan dầu khí di động phục vụ phát triển kinh tế biển, an ninh quốc phòng", của KS Phan Tử Giang và 7 đồng tác giả.

Công trình "Các giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ tối ưu hóa quá trình sản xuất của nhà máy lọc dầu Dung Quất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của BSR", của KS Nguyễn Văn Hội và 23 đồng tác giả.

Công trình "Nghiên cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ trong thu gom, xử lý và sử dụng khí đồng hành ở các mỏ của Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro và các mỏ lân cận (phần ngoài khơi)", TS Nguyễn Quỳnh Lâm cùng 24 đồng tác giả.

Cụm công trình khoa học và công nghệ về các kết quả nghiên cứu đối với các hệ thống dây chuyền máy móc, thiết bị đồng bộ ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, sử dụng nguồn năng lượng tái tạo từ phế phụ phẩm nông nghiệp góp phần xử lý môi trường và phát triển nguồn năng lượng xanh, sạch, bền vững", của PGS.TS Nguyễn Đình Tùng.

Cụm công trình "Bảo tồn và khai thác nguồn gene vật nuôi bản địa Việt Nam của Viện Chăn nuôi giai đoạn 2000-2020", của TS Phạm Công Thiếu và 14 đồng tác giả.

Công trình "Nghiên cứu, sản xuất vaccine nhược độc đông khô phòng bệnh tụ huyết trùng và đóng dấu ở lợn", của TS Nguyễn Đức Tân và 2 đồng tác giả.

Cụm công trình "Chọn tạo và phát triển các giống gà lông màu hướng thịt và hướng trứng giai đoạn 2006-2020", của TS Phùng Đức Tiến và 19 đồng tác giả.

Công trình "Nghiên cứu chế tạo xúc tác dị thể, vật liệu nano trong lĩnh vực tổng hợp và ứng dụng nhiên liệu sinh học, các sản phẩm thân thiện môi trường, tiết kiệm nhiên liệu", của GS.TS Vũ Thị Thu Hà và 14 đồng tác giả.

Trọng Đạt

" alt="Trao Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KH&CN" width="90" height="59"/>

Trao Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KH&CN

Thảo luận ở tổ về Dự án Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi) chiều 24/5, đại biểu Nguyễn Phương Thuỷ (Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội) đề nghị làm rõ khái niệm vũ khí thô sơ, trong đó có việc quy định dao dài 20cm trở lên được coi là vũ khí loại này. 

Đại biểu Thuỷ nêu Điều 32 về khai báo vũ khí thô sơ quy định: “Tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân khi sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu dao có tính chất sát thương cao thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành phải khai báo thông tin về số lượng, chủng loại sản phẩm, nhãn hiệu, tên cơ sở sản xuất với công an xã, phường, thị trấn nơi cơ sở sản xuất kinh doanh đóng chân hoặc cư trú”.

"Nếu coi dao là vũ khí thì tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh dao phải thực hiện khai báo với nhiều thủ tục. Nếu phải khai báo sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến người dân, cơ sở sản xuất. Trong khi đó, dao là vật dụng phổ biến dùng trong sản xuất, sinh hoạt, nhà ai cũng có, cũng cần sử dụng. Do đó chúng ta không nên coi dao là vũ khí và cần kiểm soát một cách tuyệt đối trên toàn xã hội như dự thảo Luật đề nghị",đại biểu Thuỷ nói. 

Bà Thuỷ đặt câu hỏi, nếu các cơ sở sản xuất dao để phục vụ nhu cầu của người dân thì chúng ta có quản lý không, người sản xuất phải khai báo không và khai báo nhằm mục đích gì? 

Đại biểu Nguyễn Phương Thuỷ.

Đại biểu Nguyễn Phương Thuỷ.

Nêu dẫn chứng số liệu từ báo cáo của Bộ Công an, đại biểu Thuỷ cho biết, hiện nước ta có 12 làng nghề sản xuất dao, với 12.300 cơ sở doanh nghiệp, hộ kinh doanh, 22.000 người tham gia vào sản xuất, chưa kể các cơ sở sản xuất công nghiệp. Nếu tất cả phải đi khai báo thì rất mất thời gian, tăng thêm lực lượng phục vụ và chi phí xã hội rất lớn.

“Chúng ta không nên cấm tuyệt đối theo như dự thảo của Luật nêu ra tại Điều 3, bởi các loại dao là công cụ phục vụ sản xuất, đời sống hàng ngày của tất cả người dân. Trường hợp nếu sử dụng dao làm vũ khí gây án, gây thương tích, gây rối trật tự chúng ta vẫn có cơ sở để xử lý hình sự" ,đại biểu Thuỷ đề nghị.

Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội cho rằng, cơ quan công an chỉ nên quản lý dao trong các trường hợp cụ thể, khu vực cụ thể, không nên đánh đồng.

“Khi tham gia giao thông hàng không, tất cả các vật sắc nhọn được soi chiếu an ninh đều coi là vật nguy hiểm và không được phép mang theo. Do vậy, ở những khu vực đặc biệt thì chúng ta nên quy định cấm tuyệt đối dao và vật sắc nhọn”,đại biểu Thuỷ nêu quan điểm.

Trong khi đó, đại biểu Nguyễn Việt Thắng (đoàn Kiên Giang) cho rằng, trường hợp sử dụng dao có tính chất sát thương cao vào mục đích lao động, sản xuất, sinh hoạt thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này. Tuy nhiên, theo quy định tại Phụ lục 4 Dự thảo Thông tư quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ thì Danh mục vũ khí thô sơ có cả dao đi rừng, dao nhà bếp (như dao chặt xương, dao chặt gà, dao thái lọc, dao phi lê…).

"Tôi đề nghị cần phải đánh giá tác động kỹ lưỡng và quy định chặt chẽ hơn về nội dung này để tránh gây xáo trộn, khó khăn trong đời sống, sinh hoạt cũng như sản xuất thường ngày của người dân và để đảm bảo tính khả thi khi triển khai thực hiện Luật trong cuộc sống",đại biểu Thắng nêu quan điểm.

Đại biểu Lê Nhật Thành.

Đại biểu Lê Nhật Thành.

Đồng tình quan điểm trên, đại biểu Lê Nhật Thành (đoàn Hà Nội) cho rằng, các loại dao có tính sát thương cao không được coi là vũ khí khi người dân sở hữu để sử dụng trong lao động sản xuất, sinh hoạt.

Tuy nhiên, đại biểu Thành cũng nêu dẫn chứng báo cáo của Bộ Công: “Trong 5 năm qua, toàn quốc đã phát hiện, bắt giữ trên 16.000 vụ, 26.000 đối tượng sử dụng các loại dao và công cụ, phương tiện tương tự dao để gây án, trong đó đã xử lý trên 7.000 đối tượng đang trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội, chủ yếu xử lý về các hành vi là hậu quả của việc sử dụng dao, công cụ, phương tiện tương tự dao như: giết người, cướp tài sản, cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng…, trên 2.000 đối tượng tái phạm, hơn 5.000 đối tượng sử dụng các loại dao theo mẫu sản xuất tại cơ sở hoặc dao tự hoán cải”.

Đại biểu Thành nhận định, như vậy tội phạm sử dụng các loại dao và phương tiện có khả năng gây sát thương tương tự dao gây án chiếm tỷ lệ rất cao, trong đó nhiều vụ là các băng nhóm, đối tượng có tổ chức gây án với tính chất rất manh động, dã man, coi thường pháp luật, nhiều vụ gây bức xúc dư luận xã hội, hoang mang, lo lắng trong Nhân dân.

Theo đại biểu Thành, quá trình điều tra các vụ án này, chỉ xử lý hình sự được khi có đủ căn cứ kết luận đối tượng phạm tội về các tội danh khác, không xử lý được đối tượng về hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí vì luật hiện hành không quy định dao, phương tiện tượng tự dao là vũ khí.

“Do đó cần quy định dao có tính sát thương cao là vũ khí thô sơ để kịp thời ngăn chặn hành vi nguy hiểm của đối tượng ngay từ giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc định hướng hành vi của đối tượng”,đại biểu Thành nói.

PHẠM DUY" alt="Đại biểu Quốc hội băn khoăn việc coi dao là vũ khí để kiểm soát tuyệt đối" width="90" height="59"/>

Đại biểu Quốc hội băn khoăn việc coi dao là vũ khí để kiểm soát tuyệt đối