Thể thao

Những vấn đề cử tri Mỹ quan tâm trong cuộc bầu cử 2024

字号+ 作者:NEWS 来源:Công nghệ 2025-03-02 20:20:04 我要评论(0)

(VTC News) - Trong số các vấn đề được đặt lên “bàn cân” của cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm nay,ữngvấnbảng xếp hạng v-league mới nhấtbảng xếp hạng v-league mới nhất、、

(VTC News) -

Trong số các vấn đề được đặt lên “bàn cân” của cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm nay,ữngvấnđềcửtriMỹquantâmtrongcuộcbầucửbảng xếp hạng v-league mới nhất kinh tế vẫn là chủ đề được nhiều cử tri quan tâm.

Theo số liệu củaGall Up,có tới 52% cử tri nói rằng vấn đề kinh tế sẽ đóng vai trò quyết định đối với lá phiếu bầu cử của họ vào tháng 11 tới. Hiện nay, phần lớn cử tri đánh giá ông Donald Trump có khả năng xử lý kinh tế tốt hơn so với đối thủ đảng Dân chủ là bà Kamala Harris, với tỷ lệ ủng hộ lần lượt là 54% so với 45%.

Dưới đây là một vài vấn đề được cử tri quan tâm nhất và sẽ quyết định kết quả cuộc bầu cử năm nay.

Ông Donald Trump và bà Kamala Harris đang có ưu thế ở một vài lĩnh vực nhất định được cử tri quan tâm. (Ảnh: Financial Times) 

Kinh tế đứng đầu danh sách

Kinh tế đứng đầu trong danh sách các vấn đề được quan tâm tại Mỹ. Tỷ lệ 52% cử tri hiện tại đánh giá kinh tế là một yếu tố “vô cùng quan trọng” ảnh hưởng đến lá phiếu của họ trong cuộc bầu cử tổng thống. Đây là mức cao nhất từng được ghi nhận kể từ tháng 10/2008, trong cuộc Đại suy thoái, khi 55% cử tri nói điều tương tự.

Phần lớn cử tri vẫn coi kinh tế là mối quan tâm hàng đầu. (Ảnh: Reuters) 

Trong các cuộc thăm dò được thực hiện gần cuộc bầu cử trong các năm bầu cử tổng thống khác kể từ năm 1996, khoảng 38% đến 44% cử tri đánh giá quan điểm của các ứng cử viên về kinh tế là cực kỳ quan trọng đối với lá phiếu của họ. Một nửa số lượt đánh giá này đến từ các cuộc thăm dò vào tháng 9 hoặc tháng 10, sát thời điểm diễn ra ngày bỏ phiếu.

Các vấn đề tiếp theo

Xếp ngay dưới kinh tế là các vấn đề về dân chủ, an ninh Quốc gia, và lựa chọn Thẩm phán Tòa án Tối cao.

Theo đó, khoảng  41% đến 49% cử tri cho rằng 4 vấn đề sau đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với lá phiếu của họ, bao gồm nền dân chủ ở Mỹ, khủng bố và an ninh quốc gia, loại thẩm phán Tòa án Tối cao mà các ứng cử viên sẽ chọn nếu họ trở thành tổng thống, và vấn đề nhập cư.

Khoảng 31% đến 38% coi 10 vấn đề sau là vô cùng quan trọng, bao gồm giáo dục, chăm sóc sức khỏe, chính sách súng đạn, phá thai, thuế, tội phạm, sự phân phối thu nhập và của cải ở Mỹ, thâm hụt ngân sách liên bang, các vấn đề đối ngoại, và tình hình Trung Đông giữa Israel và Palestine.

Nhập cư cũng là một trong những vấn đề được quan tâm trong cuộc bầu cử năm nay. (Ảnh: NPR) 

Đối với 5 vấn đề tiếp theo, bao gồm chính sách năng lượng, quan hệ với Nga, quan hệ chủng tộc, quan hệ với Trung Quốc và thương mại với các quốc gia khác, chỉ khoảng 23% đến 27% người được hỏi coi đây là những vấn đề “vô cùng quan trọng”,

Hai vấn đề khác bao gồm biến đổi khí hậu và quyền chuyển giới lần lượt là ưu tiên đối với khoảng 21% và 18% cử tri.

Khác biệt giữa hai đảng

Quan điểm giữa các cử tri của 2 đảng về những vấn đề ưu tiên trong cuộc bầu cử năm nay cũng có sự khác biệt.

Trong đó, 66% cử tri Cộng hòa và các cử tri độc lập có khuynh hướng Cộng hòa đánh giá kinh tế là vô cùng quan trọng đối với lá phiếu của họ. Mặt khác, chỉ có khoảng 36% cử tri Dân chủ và các cử tri độc lập có khuynh hướng Dân chủ hơn có đánh giá tương tự.

Kinh tế là vấn đề hàng đầu đối với cử tri Cộng hòa, nhưng nó không nằm trong top 5 vấn đề quan trọng nhất của cử tri Dân chủ. Thực tế, đối với các cử tri Cộng hoà và Dân chủ, danh sách 5 vấn đề ưu tiên có sự khác biệt rõ rệt.

Đối với đảng Dân chủ, những vấn đề họ quan tâm là nền dân chủ của Mỹ, việc bầu thẩm phán Toà án Tối cao, quyền phá thai của phụ nữ, chăm sóc sức khoẻ và giáo dục. Trong khi đó, đảng Cộng hoà đang tập trung vào vấn đề nhập cư, khủng bố và an ninh quốc gia, tội phạm và thuế.

Sự khác biệt giữa hai đảng về việc đánh giá kinh tế vô cùng quan trọng và có một sự tương phản rõ rệt so với năm 2008, khi đây là vấn đề được cả hai đảng đánh giá cao nhất.

Lợi thế của 2 ứng viên

Tính đến thời điểm hiện tại, các cử tri đang đánh giá ông Trump tốt hơn so với bà Harris trong cách xử lý các vấn đề kinh tế (54%), nhập cư (54%) và đối ngoại (52%). Mặt khác, bà Harris lại được tín nhiệm hơn so với ông Trump khi nhắc tới biến đổi khí hậu (61%), phá thai (56%) và chăm sóc sức khỏe (54%). Về vấn đề quản lý súng đạn, cả ông Trump và bà Harris chưa tạo được ấn tượng đối với cử tri.

Như dự đoán, cử tri của Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ ủng hộ mạnh mẽ ứng cử viên của đảng mình để xử lý từng vấn đề. Đa số cử tri Dân chủ, dao động từ 88% đến 97%, cho rằng bà Harris sẽ tốt hơn về tất cả các vấn đề được đề cập.

Trong khi đó, đánh giá của cử tri Cộng hòa về khả năng xử lý các vấn đề của ông Trump lại có sự khác biệt. Cụ thể, khoảng 97% ủng hộ cách ông giải quyết vấn đề nhập cư và kinh tế, 69% đối với biến đổi khí hậu và 78% đối với phá thai. 1/4 cử tri Cộng hòa cho rằng bà Harris sẽ làm tốt hơn về vấn đề biến đổi khí hậu và 16% nói điều tương tự về phá thai. Ngược lại, chưa tới 11% cử tri Dân chủ cho rằng ông Trump sẽ làm tốt hơn bà Harris về bất kỳ vấn đề nào.

Cử tri của cả hai đảng đều khẳng định mạnh mẽ rằng họ ủng hộ ứng cử viên của đảng mình về những vấn đề quan trọng nhất. Trong đó, 95% cử tri Cộng hòa tán thành với những gì ông Trump đang làm. Về phía đảng Dân chủ, 92% cử tri bày tỏ quan điểm tương tự với bà Harris.

So với kết quả thăm dò hồi tháng 6, bà Harris đang nhận được nhiều sự ủng hộ hơn so với Tổng thống đương nhiệm Joe Biden. Thời điểm ấy,  37% cử tri nói rằng họ đồng tình với ông Biden về những vấn đề được quan tâm. Trong khi đó, đánh giá của ông Trump hầu như không thay đổi kể từ tháng 6.

1.本站遵循行业规范,任何转载的稿件都会明确标注作者和来源;2.本站的原创文章,请转载时务必注明文章作者和来源,不尊重原创的行为我们将追究责任;3.作者投稿可能会经我们编辑修改或补充。

相关文章
网友点评
精彩导读
Âm mưu từ hoàng tộc

Tháng 3/1857, Bộ trưởng Ngoại giao Nga - Công tước A. M. Gorchakov nhận được bức thư của Đại công tước Konstantin Nicolayevich đề nghị đem bán các thuộc địa của Nga ở Bắc Mỹ: “Việc bán miền đất này là cực kỳ đúng lúc, vì người Mỹ đường nào cũng sẽ chiếm nó mà ta không có cơ thu hồi lại. Hơn nữa, những thuộc địa đó không mang lại nguồn lợi đáng kể, và mất nó đi cũng không ảnh hưởng gì lắm…”.

Công tước Gorchakov lâm vào một tình huống khó xử. Ông không ủng hộ việc bán vùng Alaska; nhưng mặt khác cũng không thể bỏ qua ý kiến của một người trong hoàng tộc. Công tước quyết định chuyển bức thư cho Sa hoàng. Thật bất ngờ, vị Hoàng đế phê vào bức thư của người em trai: “Cần phải lưu tâm đến ý tưởng này”.

Thực ra, Sa hoàng làm ra vẻ bây giờ mới “lưu tâm” đến ý tưởng bán vùng Alaska cho Mỹ. Còn Công tước Gorchakov, người đã 40 năm lăn lộn ở chính trường, biết rất rõ ngọn ngành câu chuyện. Trước đó 3 năm, Đại công tước Konstantin Nicolayevich đã có cuộc gặp tại Petersburg với doanh nhân Mỹ V. Sanduss, và chính ông này đã xúi anh em Sa hoàng thực hiện hành động có một không hai trong lịch sử Nga.

Công tước Gorchacov bèn tìm cách kéo dài việc giải quyết vấn đề - ông thông báo mọi chuyện cho Đô đốc F. P. Wranghel, Thống đốc Alaska. Hiểu rõ tình thế khó khăn của người bạn, F. Wranghel đưa ra một quan điểm hợp lý và khôn ngoan: “.. Nếu chính phủ thấy rằng, việc duy trì chủ quyền đối với Alaska là không thuận lợi, rằng việc nhường vùng đất này cho Mỹ là cần thiết và có lợi, thì mức giá có thể vào khoảng 20 triệu rúp vàng”.

{keywords}
Buổi ký hiệp định mua bán Alaska giữa Nga-Mỹ. Ảnh: Wikipedia

Dựa vào ý kiến của F. Wranghel, Công tước Gorchakov đề nghị Sa hoàng không vội vàng trong việc này, mà hãy đợi đến khi Đại sứ Steckel trao đổi với Chính phủ Mỹ. Cảm thấy thời cơ chưa đến, ngày 29/4/1857, Alesander II có bút phê “Tạm thời chưa tiến hành” việc bán vùng Alaska.

“Nhóm sáng kiến” vụ lợi

Vụ việc gác lại 10 năm trời. Trong thời gian đó đã hình thành một “nhóm sáng kiến” những người ủng hộ bán vùng Alaska, gồm Đại công tước Konstantin Nicolayevich, Bộ trưởng Tài chính M. C. Rayton và Đại sứ Nga tại Mỹ, Bá tước E. A. de Steckel.

Trong đó, Đại công tước lãnh việc tác động Bộ trưởng Ngoại giao; Rayton đem khủng hoảng tài chính ra “doạ” Hoàng đế; còn Steckel duy trì mối liên hệ với Chính phủ Mỹ. Thật ngạc nhiên là các vị này đã dành hàng chục năm trong đời mình để lo một việc – bán cho kỳ được 6% lãnh thổ Đế chế Nga (năm 1860, diện tích nước Nga là 375.000 dặm vuông, trong đó diện tích vùng Bắc Mỹ thuộc Nga – vùng Alaska là 23.000 dặm vuông).

Điều này không thể giải thích bằng cách nào khác, ngoài lý do mỗi người trong bọn họ đều có quyền lợi cá nhân ích kỷ trong việc bán tống bán tháo một phần lãnh thổ nước nhà.

Quả thật, giả sử có nhu cầu thực thì tại sao không bán cho nước Anh? Người ta trả lời, vì nước Anh là đối thủ chính trị của Nga. Nhưng hoàn toàn có thể chuyển thù thành bạn; và do Alaska nằm kề thuộc địa của Anh, người Anh sẽ rất hài lòng khi mua được miếng đất “liền mảnh”.

Hơn nữa, nước Anh có thể trả giá cao hơn nhiều lần nước Mỹ đang nghèo sau những năm nội chiến. Thành thử, cách lý giải duy nhất là người mua đã được định sẵn – Chính phủ Mỹ; đứng sau người mua đó là kẻ sẽ cấp tiền – Ngân hàng “De Rotshield Phrare”.

Tháng 9/1866, Bộ trưởng Tài chính Rayton thông báo cho Sa hoàng rằng trong vòng 2 đến 3 năm tới cần chuẩn bị một khoản tiền 45 triệu rúp để trả nợ. Nhưng tiền không đào đâu ra, và vị Bộ trưởng gợi ý tiếp tục vay nước ngoài để trả. Khoản vay này phụ thuộc nhiều vào “tiến độ” giải quyết việc bán Alaska cho Mỹ.

Tháng 10/1866, Bá tước Steckel rời Washington trở về Petersburg, nơi diễn ra cuộc họp của “nhóm sáng kiến” tại nhà Đại công tước Konstantin. Giá cả đã thoả thuận xong – phía Mỹ sẵn sàng trả 5 triệu USD, bằng vàng. Vấn đề còn lại là tiếp tục gây áp lực với Công tước Gorchakov.

Ngày 16/12 năm đó, hồi 13 giờ, tất cả tập hợp tại nhà Ngoại trưởng Gorchakov. Sa hoàng đồng ý cho phép bán vùng lãnh thổ thuộc Nga ở Bắc Mỹ. Cuộc họp không ghi biên bản; chỉ có đôi dòng trong nhật ký của Hoàng đế Alesander II: “Hồi 1 giờ họp ở nhà Công tước Gorchakov bàn việc công ty Mỹ. Quyết định bán”.

Cả Hội đồng Bộ trưởng lẫn Hội đồng Nhà nước đều không được thông báo. Điều đáng nói là văn kiện quốc tế quan trọng như thế – bán một phần lãnh thổ quốc gia – mà người được uỷ quyền đàm phán và ký lại không phải là Bộ trưởng Ngoại giao, mà là Đại sứ Steckel. Hơn thế, Steckel không hề có một quyết định nào bằng văn bản. Ông chỉ được Rayton truyền đạt miệng: “Đòi 5 triệu USD”.

Viên đại sứ mất tích

Hiệp định về việc mua – bán vùng Alaska thuộc Nga cho Mỹ được Ngoại trưởng Mỹ William Seward và Đại sứ Nga Edward Steckel ký đêm 29 rạng ngày 30/3/1867. Hiệp định gồm 7 điều, quy định giá bán là 7.200.000USD vàng trả bằng tiền mặt. Thời hạn trả là 10 tháng sau khi văn bản hiệp định được phê chuẩn.

Bá tước Steckel cho rằng, việc tăng 2,2 triệu USD so với mức giá định trước là công lao của ông ta, và ông ta hoàn toàn có quyền được hưởng một phần trong số “dôi ra” đó. Thế nhưng Sa hoàng đã không chiều theo ý muốn của ngài Đại sứ – Bá tước chỉ được thưởng huân chương cùng 25.000 rúp bạc.

Sau khi hiệp định được phê chuẩn, Bộ trưởng Ngoại giao Gorchakov chuyển giao mọi công việc còn lại cho Bộ Tài chính. Theo đó, đại diện có thẩm quyền của Bộ này phải đến Washington trực tiếp nhận tiền mặt, đưa tiền lên tàu chiến Nga rồi đưa về Petersburg nộp vào quốc khố.

Thế nhưng bá tước Steckel đã tự mình đứng ra nhận tiền; và thay vì nhận tiền vàng như đã thoả thuận, ông ta đã đem về nước 7,2 triệu USD. Số tiền này, về giá trị chỉ tương đương 5,9 triệu USD vàng, và như vậy, sự vội vàng của ngài Đại sứ đã làm nước Nga thiệt 1,8 triệu USD.

Điều đáng ngạc nhiên là Nga không hề lên tiếng đòi phía Mỹ trả nốt chỗ tiền còn lại; và thừa thế, người Mỹ cũng im lặng luôn… Ngày 1/8/1868, Bá tước Steckel chuyển cho ngân khố Mỹ lời xác nhận rằng đã nhận đủ số tiền, và tấm séc hiện còn lưu giữ tại Bộ Tài chính Mỹ có tên ông ta ở phần “Người nhận”. Trong số 7,2 triệu USD, Steckel chỉ nộp vào công quỹ 7 triệu 35 nghìn, còn 165 nghìn ông ta đút túi.

Số phận tiếp theo của Steckel không được rõ ràng. Cả ở Nga, cả ở nước ngoài, không hề có dấu vết của ngài cựu đại sứ. Bá tước Edward Steckel hoàn toàn biến mất như chưa từng tồn tại.

Nguyên Phong

" alt="Bí mật thương vụ mua bán vùng đất Alaska" width="90" height="59"/>

Bí mật thương vụ mua bán vùng đất Alaska

Chú thích ảnh

Khẩu đội tên lửa đạn đạo Iskander của Nga. Ảnh: RT

Hãng thông tấn Tass đưa tin, ngày 23/8, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã chủ trì cuộc họp với các thành viên thường trực Hội đồng An ninh Liên bang Nga về Hiệp ước INF, sau khi Mỹ thử biến thể mới của tên lửa hành trình Tomahawk, loại tên lửa vốn bị cấm thử trong khuôn khổ INF.

Tại cuộc họp, Tổng thống Putin giao nhiệm vụ phân tích nguy cơ sau vụ thử của Mỹ và chuẩn bị biện pháp đáp trả tương xứng. Ông nhấn mạnh Nga sẵn sàng đối thoại trên tinh thần xây dựng và bình đẳng với Mỹ để khôi phục lòng tin và củng cố an ninh quốc tế. Nhà lãnh đạo Nga cũng khẳng định nước này sẽ không tham gia cuộc chạy đua vũ trang tốn kém và có hại cho nền kinh tế.

Nhà lãnh đạo Nga nêu rõ việc Mỹ thử tên lửa mới chỉ 16 ngày sau khi rút khỏi INF cho thấy việc rút khỏi hiệp ước này đã được Washington lên kế hoạch từ lâu. Mỹ đã dựng lên một chiến dịch tuyên truyền để cáo buộc Nga vi phạm INF nhằm che đậy ý đồ rút khỏi hiệp ước và bố trí các tên lửa bị cấm tại nhiều khu vực trên thế giới.

Hãng tin RT dẫn phân tích của các chuyên gia quân sự cho rằng Moskva không cần thiết phải tham gia một cuộc chạy đua vũ trang mới kiểu thời Chiến tranh Lạnh. Bởi vì, Nga có những thế mạnh riêng và đặc biệt Nga có “các con át chủ bài” trong tay.

Vậy Nga có những “át chủ bài” nào để đối phó với mối đe dọa mới này?

Viktor Murakhovsky, một nhà phân tích quân sự và là một sĩ quan đội nghỉ hưu, cho rằng Nga có một loạt vũ khí vốn buộc phải cắt giảm tính năng kỹ thuật để đáp ứng những qui định trong Hiệp ước INF, theo đó cấm các tên lửa có tầm bắn từ 500-1.000km (tầm bắn từ ngắn tới trung) và các tên lửa tầm bắn 1.000-5.500km (tầm trung).

Ông Murakhovsky được dẫn lời nói: “Nga đã có sẵn hệ thống tên lửa đạn đạo Iskander, đang trang bị cho các lữ đoàn tên lửa của Lục quân, với tầm bắn giới hạn (theo qui định của Hiệp ước INF). Tầm bắn của tên lửa Iskander đã được hạ xuống dưới 500km, chính xác là 480km. Và nay, khi những qui định giới hạn theo Hiệp ước INF không còn nữa, không gì có thể ngăn cản các nhà thiết kế vũ khí của chúng ta khôi phục tính năng kỹ thuật căn bản của các tên lửa”. Theo chuyên gia này, đây là giải pháp bất đối xứng rẻ nhất và hiệu quả nhất.

Ông Mikhail Khodarenok, một đại tá phòng không nghỉ hưu, cho rằng Nga cũng có thể tìm cách lập lại các đơn vị tên lửa chiến thuật vốn trước đây bị cấm trong khuôn khổ Hiệp ước INF.

Ông Khodarenok gợi ý: “Lấy ví dụ, một số lữ đoàn tên lửa tiền phương được trang bị các tên lửa hành trình phóng từ mặt đất sẽ được triển khai và về tổng thể điều đó sẽ không làm bội chi ngân sách quốc phòng hiện nay”.

Chú thích ảnh

Tên lửa Kalibr của Nga. Nguồn: RT

Ông đánh giá Moskva cũng có thể sớm thực hiện một vụ phóng tên lửa hành trình giống với vụ phóng tên lửa Tomahawk và “trong tương lai không xa, Nga sẽ trình làng một hệ thống tên lửa hành trình mặt đất mới”.

Chuyên gia Murakhovsky cho biết thêm một phương án khác đó là hệ thống tên lửa Club, vốn bình thường được ngụy trang như là container hàng hóa để có thể đặt trên xe tải, tàu hỏa hoặc tàu thương mại, qua đó cho phép tên lửa này luân chuyển và cất giấu mà không gây bất kỳ nghi ngờ nào. Giống như tên lửa đạn đạo Iskander, tầm bắn của tên lửa Club đã bị giảm xuống còn 300km và mang theo đầu đạn 500kg vì những giới hạn qui định trong INF.

Ngoài ra, Nga cũng có những vũ khí và công nghệ hàng đầu khác. Giới chuyên gia lưu ý mọi người có thể xem lại cách Moskva đáp trả việc Washington rút khỏi Hiệp ước ABM năm 2002.  

Nga đã chế tạo và phiên chế hệ thống tác chiến độc lập, tên lửa siêu thanh Avangard. Phương pháp này cho phép Nga đáp trả tất cả các nỗ lực của Mỹ triển khai những hệ thống tên lửa như Hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) hay Aegis, với mức chi phí chỉ bằng 1/1.000 so với Mỹ.

Giới quan sát đánh giá dù có “không ít át chủ bài” trong tay, song ưu tiên của Nga vẫn là ủng hộ duy trì kiểm soát vũ khí và đối thoại để giải quyết các khác biệt trong lĩnh vực này.

Tổng thống Putin đồng thời khẳng định với kho vũ khí tên lửa hiện có, cùng với những tiến bộ của quốc gia này trong phát triển tên lửa siêu thanh, Nga có đủ năng lực để đối phó với mọi mối đe dọa từ Mỹ.

Nhà lãnh đạo Nga nhấn mạnh Moskva và Washington cần phải nối lại các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí nhằm ngăn chặn bùng phát "một cuộc chạy đua vũ trang không giới hạn". Ông Putin lưu ý để tránh một cuộc đua hỗn loạn không luật lệ, không giới hạn, Nga và Mỹ cần một lần nữa cân nhắc mọi hậu quả và tiến hành đối thoại nghiêm túc, ý nghĩa.

Phát biểu tại phiên họp khẩn cấp Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ngày 22/8 sau vụ thử tên lửa của Mỹ, Phó Đại sứ Nga tại LHQ Dmitry Polyanskiy cũng kêu gọi các nước châu Âu hành động để ngăn chặn Mỹ triển khai tên lửa tầm trung tại châu lục, khẳng định Nga sẵn sàng “đối thoại nghiêm túc” về kiểm soát vũ khí để đảm bảo tình hình an ninh và ổn định chiến lược.

Theo Baotintuc

" alt="Nga có thể đáp trả các vụ thử tên lửa của Mỹ như thế nào" width="90" height="59"/>

Nga có thể đáp trả các vụ thử tên lửa của Mỹ như thế nào

Trường THCS Lý Tự Trọng (Krông Búk, Đắk Lắk)

Cụ thể, hiệu trưởng các trường trung học phải đảm bảo 2 tiết/tuần; phó hiệu trưởng 4 tiết/tuần theo quy định về kế hoạch thời gian năm học.

Yêu cầu các lãnh đạo trường học tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả thời gian làm việc của cơ quan, đơn vị theo đúng quy định nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng thời giờ làm việc của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.

Ngoài ra, Sở GD-ĐT tiếp tục thành lập các Đoàn thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và chế độ làm việc đối với cán bộ quản lý các trường trung học để phát hiện những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý, công tác chuyên môn. Việc này nhằm kịp thời điều chỉnh, chỉ đạo, hướng dẫn và đề xuất những biện pháp khắc phục đảm bảo theo đúng quy định.

Trước đó, VietNamNetcó bài phản ánh việc Hiệu trưởng Trường THCS Lý Tự Trọng, huyện Krông Búk dù được phân công giảng dạy 2 tiết/tuần môn Giáo dục công dân nhưng không lên lớp theo quy định.

Vị hiệu trưởng này cho rằng, do bận công tác nhiều nên một giáo viên tự nguyện dạy thay. Đồng thời bản thân cũng thường xuyên dạy thay cho nhiều giáo viên trong trường khi các giáo viên bận công chuyện đột xuất.

Tuy nhiên, dù có người dạy thay và vẫn đảm bảo tiết dạy, nhưng việc làm của hiệu trưởng Trường THCS Lý Tự Trọng chưa đúng với quy định của Bộ GD-DT đề ra.

Hiệu trưởng bỏ lịch dạy dù được phân công theo quy địnhHiệu trưởng Trường THCS Lý Tự Trọng, huyện Krông Búk (tỉnh Đắk Lắk) thừa nhận, được phân công giảng dạy 2 tiết/tuần môn Giáo dục công dân nhưng không lên lớp." alt="Đắk Lắk: Yêu cầu hiệu trưởng, hiệu phó dạy đủ tiết được phân công" width="90" height="59"/>

Đắk Lắk: Yêu cầu hiệu trưởng, hiệu phó dạy đủ tiết được phân công